Phương pháp thử

Thiết bị

So sánh TRUBURST / BURSTING / MULLEN TESTER

Mullen tester là một thiết bị thử độ bục của vải 100% thao tác bằng tay, đồng hồ hiện thị kim chỉ. Sai số kết quả thử nghiệm 70-80% là do người vận hành còn 20-30% còn lại là do sai số của máy.

– Sai số của máy cao là do độ phân giải của kim chỉ cao, thiết bị sử dụng bơm dầu để tăng áp lực phá vỡ mẫu thử, dầu đi trong hệ thống cũng bị giảm đi khi đến đồng hồ hiện thị. Máy không có chức năng hoặc quy định màng cao su sử dụng khi màng cao su giãn nếu sử dụng thì máy không thể trừ đi được áp lực, độ giãn của vảisai số lớn ảnh hưởng đến kết quả

– Người vận hành ảnh hưởng đến quả không kém, kết quả sai do người vận hành thao tác sai (gắn mẫu, điều chỉnh cần gạt, lực ép mẫu….) tất cả những vấn đề này đều ảnh hưởng đến kết quả thử nghiệm.

Bursting tester là một loại máy Bán tự động ( gần như tự động ) ở loại máy thử độ bục này thì sai số kết quả thử nghiệm do máy móc được giảm xuống còn 5%. Ưu điểm ở loại máy này là độ phân giải kết quả nhỏ có thể lên đến 0,001 máy sử dụng hệ thống khí nén để tăng áp lực phá vỡ mẫu thửkết quả ổn định hơn.

– Đối với loại máy Bán tự động nhưng sai số kết quả quả thử nghiệm 80-90% đối với loại máy này là do người vận hành bởi vì áp lực vòng kẹp đè lên mẫu điều chỉnh bằng tay (vì đối với từng loại vải khác nhau thì áp lực ép lên mẫu cũng khác nhau. Khi vận hành người vận hành phải đọc phương pháp thử và phải được huấn luyện (để vận hành đúng người vận hành cài đặt đúng các thông số cài đặt).

– Nhược điểm thứ 2 là máy cũng không thể trừ được khoảng cách ban đầu (nếu màng cao su sử dụng lâu ngày bị giãn)

– Tất cả sai số kết quả thử nghiệm đa số đều do người vận hành.

Để giải quyết vấn đề tại sao lại không chọn một thiết bị giảm thiểu sai số do thiết bị . giảm chi phí và thời gian huấn luyện người vận hành.

Truburst 4 là một thiết bị Tự Động hoàn toàn. Độ phân giải của thiết bị nhỏ. Phương pháp thử được tích hợp sẵn bên trong máy (giảm chi phí và thời gian đào tạo người vận hành). Áp lực vòng kẹp , tốc độ tăng áp lực đều tự động hoàn toàn . giảm đi sai số do người vận hành.

https://www.youtube.com/watch?v=1PubB7a5Iys

– Máy có chức năng kiểm tra và trừ đi các giá trị bị nhiễu do màng cao su (check diaphragm)

– Máy có chức hiệu chuẩn áp suất tự động (nếu áp suất đầu vào không ổn định) Để đảm bảo rằng các kết quả cho ra không bị sai số do áp không ổn định (automatic flow calibration)

Thử xé rách

Q: Khi muốn thử độ co giãn bị ảnh hưởng thế nào đối với vải denim, có phương pháp nào phù hợp không?
A: Khi đánh giá độ co giãn bị ảnh hưởng, phương pháp thử co giãn phục hồi sẽ phù hợp hơn thử độ bền xé rách, chúng ta có thể thử mẫu trước và sau khi xử lý bề mặt để đánh giá độ co giã và phục hồi, tính toán & thay đổi trước và sau.

Q: Có nên hiệu chuẩn trước khi thử nghiệm để kiểm tra lực?
A: Có thể kiểm tra giá trị đọc đúng bằng cách kiểu tra các quả tạ kết nối với cảm biến lực. Có thể kiểm tra giá trị đọc của từng quả tạ để xem trọng lượng đúng có được ghi nhận không.

Q: Lực xé có phụ thuộc trọng lượng vải không?
A: Nói chung là có. Vải có trọng lượng cao sẽ có độ bền xe rách cao hơn so với vải có trọng lượng nhẹ.

Q: Phương pháp nào thường được dùng cho vải có thành phần co giãn?
A: Không nên thử bằng phương pháp Elmendorf cho vải có thành phần co giãn. Nếu vải chứa thành phần co giãn, khi xé vải, khoảng cách 43mm sẽ thay đổi với vải có độ giãn cao, do vậy, việc tính toán lực xé sẽ không chính xác. Phương pháp ISO 13937 phần 2, 3 sẽ phù hợp hơn, phù hợp nhát là phần 2.
Thử xé rách bằng máy cường lực CRE như Titan có thể sư dụng cho vải co giãn do không sử dụng khoảng cách khi tính lực xé rách.

Bền nén thủng – phồng co


Q:Cách đặt mẫu đúng khi thử độ bục trong trương hợp vải có thành phần co giãn?
A: Đặt mẫu vào giữa ngàm trên và ngàm dưới sao cho không bị nhăn hay gãy gập. Phương pháp này cũng được dùng cho vải có thành phần không co giãn, trong trường hợp này sẽ sử dụng vòm thử có kích thước nhỏ hơn.

Q: Cho các sản phẩm vớ quần, lợi ích của việc thử bằng phương pháp nén thủng là gì (ASTM D6797)?
A: Với vải co giãn nhiều, phương pháp dung màng cao su sẽ bị hạn chế bởi độ cao của vòm thử. Khi sử dụng phương pháp nén thủng, hành trình di chuyển cả chùy nén sẽ cao hơn nhiều so với chiều cao của vòm thử, làm vải sẽ bị bục, không bi giới hạn bởi chiều cao của vòm. Kết quả tiêu chuẩn D3786 và D6797 KHÔNG so sánh được với nhau. 

Q: Có sự khác biệt cần lưu ý nào về kết quả khi thử độ bục bằng máy thủy lực và máy dùng khí?
A: Không có sự khác biệt đáng kể trong kết quả thử nghiệm độ bục giữa máy thủy lực và máy dùng khí, đối với áp lực cho tới 800kPa. Dải áp suất này có độ phủ phần lớn các đặc tính của sản phẩm dệt may nói chung (xem ISO 13938-2). Một số máy thủy lực có áp suất cao hơn 800kPa.

Q: Áp suất cần cho máy thử độ bục là bao nhiêu?
A: Áp suất tối đa: 10 bar (145psi) có điều áp Áp suất tối thiểu: 6 bar. Sử dụng máy nén khí sẽ có thể tạo ra áp suất cao hơn so với đường khí cấp thông thường tại nhà máy, có thể đạt được 1000kPa/145psi, máy nén khí sẽ có thêm bộ lọc và van điều áp.

Q: Hướng nào của mẫu phải có độ căng, tất cả các hướng hay chỉ vài trường hợp?
A: Khi thử trên TruBurst, toàn bộ vải sẽ được căng đa chiều.

Bền màu ánh sáng


Q: Phương pháp thử nào liên quan đến thời gian, phương pháp nào liên quan đến kết quả tham chiếu Len xanh?

A: Phần lớn các tiêu chuẩn dựa trên len xanh, trong khi các tiêu chuẩn trong ngành ô tô dựa trên lượng bức xạ (thời gian). Bức xạ có kiểm soát được dung trong phương pháp thử này, sử dụng một đồng hồ đo bức sóng như James Heal’s SolarSens. ISO 105 B02 – Method 5 cũng tham chiếu lượng bức xạ.

Q: Tần suất thay thể đèn Xenon Lamps, Kính lọc KG1 Filters, Borosilicate Cylinder và bộ lọc khí Air Filters?

A: Đèn: thay khoảng 1500 giờ khi chạy phương pháp ISO 105 B02 A1
KG1 Filters: thay 3500 giờ
Borosilicate Cylinder: Không có quy định vòng đời, chỉ cần giữ sạch và không trầy xước, hư hỏng
Bộ lọc khí tùy thuộc vào môi trường

Q: Giải thích sự khác biệt chính giữa ISO 105 B02 Method 2 và Method 5?

A: Method 2 dùng Len xanh, được mô tả trong tiêu chuẩn như saus, ‘dùng khi một số lượng mẫu lớn cần được thử đồng thời. Phương pháp này cho phép một số lượng mẫu có độ bay màu khác nhau được thử với cùng một bộ len xanh chuẩn tham chiếu. Phương pháp 5 dựa trên lượng bức xạ (thời gian) như tiêu chuẩn miêu tả “Phương pháp này thích hợp để kiểm tra độ phợp chuẩn theo mức bức xạ quy định trước”.